Khoản 3 – Cách hiểu định nghĩa “cách điện chính”
Nói chung, lớp cách điện tiếp xúc trực tiếp với bộ phận mang điện có thể là vật liệu cách điện thông thường (chẳng hạn như vật liệu nhựa như PVC và ABS), hoặc có thể là không khí hoặc khoảng cách (khoảng cách đường rò) được hình thành trên bề mặt của vật liệu cách điện. Hầu hết các quốc gia không chấp nhận những cấu trúc mà người dùng có thể chạm vào vật liệu cách nhiệt cơ bản. Do đó, lớp cách nhiệt cơ bản thường nằm bên trong thiết bị và không thể chạm vào trong quá trình hoạt động bình thường.
Như hình bên trái bên dưới là ảnh nắp dưới của quạt, còn hình bên phải là ảnh không có nắp dưới. Lớp vỏ dây màu xanh và nâu bên trong dây nguồn trong hình bên phải có thể được coi là lớp cách điện cơ bản. Đồng thời, lớp vỏ dây màu trắng, đỏ và đen trên công tắc nối với vỏ màu đen cũng có thể được đánh giá là lớp cách điện cơ bản; phần mang điện ở đây chính là lõi đồng trong dây dẫn. Ngoài ra, khoảng cách giữa dây dẫn kim loại trong công tắc và bề mặt bên trong của lớp vỏ màu trắng có thể được coi là cách điện cơ bản. Từ góc độ khoảng cách đường rò, dòng điện trong dây dẫn bên trong công tắc được dẫn (leo) dọc theo bề mặt cách điện của công tắc đến bề mặt bên trong của lớp vỏ màu trắng (góc nhỏ bên trái của hình bên phải), và khoảng cách này có thể được coi là chiều dài đường rò của cách điện chính. Từ góc độ khe hở điện, dòng điện trong dây dẫn bên trong công tắc được dẫn trực tiếp qua không khí giữa bề mặt bên trong của nắp đáy quạt và vỏ công tắc, và khoảng cách giữa không khí này được coi là khe hở của lớp cách điện cơ bản. (Phần vỏ nhựa màu trắng được đánh giá là có tác dụng cách nhiệt bổ sung)
Như thể hiện trong hình bên dưới, dây dẫn sơn mài của cuộn dây của động cơ được cố định bằng giấy khe màu trắng lắp vào stato động cơ. Cuộn dây được xác định là bộ phận mang điện để hở theo tiêu chuẩn. Các dây dẫn sơn mài của cuộn dây và stato động cơ tạo thành một vòng dẫn điện xuyên qua giấy khe (nói chung, nếu là thiết bị Loại I, thì stato nối với vỏ động cơ cũng sẽ được nối đất vì vỏ động cơ được nối đất. Nếu là thiết bị Cấp II, vỏ động cơ và stato động cơ là thành phần kim loại trung gian không nối đất). Mặc dù độ dẫn điện của giấy khe không đủ nhưng dòng điện yếu vẫn sẽ được tạo ra trên giấy khe. Lượng dòng điện được tạo ra ở đây liên quan trực tiếp đến hiệu suất của giấy đánh khe. Chất liệu giấy khe ở đây có thể được xác định là vật liệu cách nhiệt cơ bản. Bề mặt của giấy khe có thể được kết nối với các lớp kim loại của cuộn dây, do đó khoảng cách trên bề mặt giấy khe có thể được xác định là khoảng cách đường rò của cách điện cơ bản; bản thân vật liệu của giấy khe đóng vai trò cách điện rắn (mặc dù không có yêu cầu về độ dày đối với cách điện rắn nhưng vẫn cần đáp ứng các yêu cầu về dòng điện rò rỉ và độ bền điện của Chương 13 và 16); theo đó, khe hở điện trong hình trên là khoảng cách ngắn nhất giữa cuộn dây và các lá stato trong không khí.
Như thể hiện trong hình bên dưới, và nbsp;dây quấn động cơ không được cố định đúng cách và nằm rất gần stato động cơ. Nó không còn có thể đáp ứng các yêu cầu về chiều dài đường rò và khoảng cách khe hở của điều 29. Đây là hạng mục không tuân thủ phổ biến.
Như thể hiện trong hình ảnh động bên dưới, đường đầu mũi tên màu đỏ đánh dấu vị trí của lớp cách điện cơ bản, bao gồm khe hở không khí và đường rò. Các cuộn dây trong cuộn kháng dùng trong máy điều hòa không khí là các bộ phận mang điện và các cuộn dây này được tách ra khỏi lõi stato bằng suốt chỉ, tạo thành lớp cách điện cơ bản.
Cách điện cơ bản của động cơ quạt